Menu

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cực hay và ngắn gọn nhất

Hôm này chúng tôi sẽ tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ sẽ giúp bạn khái quát được nội dung chính về cuộc đời và số phận của Mị, A Phủ, những người dân lao động vùng Tây bắc trước cách mạng tháng tám. Để hiểu hơn về tác phẩm bạn có thể tham khảo ngay bài viết dưới đây của THPT Chuyên Lam Sơn

Tham khảo thêm:

Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài

Đôi nét về tác giải Tô Hoài

+) Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen.

+) Quê nội: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).

+) Sinh ra và lớn lên ở quê ngoại: làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

+) Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như: làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất nghiệp.

+) Năm 1943, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

+) Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.

Sự nghiệp văn học

Tác phẩm chính:  Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau:

  • Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941)
  • O chuột (tập truyện, 1942)
  • Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953)
  • Miền Tây (tiểu thuyết, 1967)
  • Ba người khác (tiểu thuyết, 2006),…

Phong cách nghệ thuật: Hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.

Khái quát chung về tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

+) Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc – tập truyện được giải Nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955.

+) Viết năm 1952, đây là sản phẩm của chuyến thâm nhập thực tế, cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc suốt 8 tháng của Tô Hoài trên núi cao đến các bản làng mới giải phóng.

Chủ đề

+) Phản ánh số phận đau thương và quá trình đến với con đường tự do, con đường cách mạng của các dân tộc ít người ở Tây Bắc.

Bố cục : Vợ chồng A Phủ (3 phần)

+) Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra

+) Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra

+) Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài

Giá trị nội dung Vợ chồng A Phủ

+) “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.

+) Truyện cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân.

Giá trị nghệ thuật Vợ chồng A Phủ

+) Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét.

+) Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…).

+) Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

+) Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

+) Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

Chủ đề truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

+) Qua câu chuyện về cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện một cách xúc động nỗi khổ cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất thực dân, đồng thời phát hiện, khẳng định vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt và quá trình vùng lên tự giả phóng, xây dựng lại cuộc đời của họ.

Ý nghĩa truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

+) Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ.

Giá trị hiện thực Vợ chồng A Phủ

+) Phản ánh chân thực bức tranh đời sống của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám bị áp bức, bóc lột.

+) Bộ mặt tàn bạo của bọn phong kiến miền núi.

+) Phản ánh chân thực những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc

Giá trị nhân đạo Vợ chồng A Phủ

+) Phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của con người Tây Bắc.

+) Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến.

+) Biểu lộ sự căm ghét đối với chế độ thực dân, phong kiến.

Tìm hiểu về nhân vật Mị.

+) Sự xuất hiện của Mị:

  • Ngoại hình: Mặt lúc nào cũng rười rượi buồn.
  • Tư thế: Dù làm gì đi đâu cũng cúi mặt.
  • Công việc: Hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô, quay sợi gai bên tảng đá, trước cửa cạnh tàu ngựa.

=> Sự xuất hiện của Mị đối lập hoàn toàn với khung cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí.

+) Số phận đầy đau khổ, nghiệt ngã của Mị.

– Trước khi về làm dâu:

  • Xinh đẹp, có bao người mê.
  • Thổi lá hay như thổi sáo.
  • Có ý thức đấu tranh: Thà làm nương ngô vất vả chứ nhất quyết không chịu làm dâu nhà giàu.
  • Hiếu thảo: Dù đau đớn, tủi cực những vì thương cha nên vẫn quyết định chịu kiếp sống làm trâu ngựa cho nhà thống lí.

– Khi mới về làm dâu cho nhà thống lí:

  • Đêm nào cũng khóc.
  • Làm việc như trâu ngựa.
  • Định tự tử nhưng vì thương bố nên quyết định không tự tử nữa.

– Sau khi Mị bỏ trốn trở về:

  • Sống như cái xác không hồn lầm lũi trong phòng tối.
  • Cắm đầu làm việc như trâu ngựa.
  • Quen với cái khổ, không còn ý định tự tử nữa.

+) Sự trỗi dậy và khao khát sống của nhân vật Mị.

– Không khí ngày xuân:

  • Tiếng sáo gọi bạn đầu làng.
  • Tiếng trẻ con cười đùa vui vẻ.
  • Những chiếc váy hoa xòe như những con bướm rực rỡ.

– Tâm hồn bừng tỉnh:

  • Tiếng sáo khi trầm khi bổng. Tiếng sáo đưa Mị về quá khứ hạnh phúc.
  • Tiếng sáo làm trỗi dậy khao khát sống của Mị.
  • Tiếng sáo buộc Mị đối mặt với thực tại và muốn tự tử.

– Hành động thức tỉnh:

  • Uống rượu.
  • Lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
  • Muốn đi chơi xuân.
  • Dù bị trói nhưng vẫn say mê trong tiếng sáo
  • Hết rượu, Mị bừng tỉnh, nhớ lại câu chuyện về người đàn bà chết ở nhà thống lí vào đời trước, Mị sợ hãi cựa quậy xem mình còn sống hay chết.

+) Hành động phản kháng mãnh liệt của Mị.

– Ngọn lửa mùa đông:

  • Trời rét đêm nào cũng ngồi thổi lửa hơ tay.
  • Nhiều đêm thấy A Phủ bị trói nhưng vẫn thản nhiên.

– Hành động phản kháng.

  • Hàng nước mắt của A Phủ làm tan chảy sự thờ ơ của Mị.
  • Nghĩ lại tình cảnh của mình khi bị trói
  • Nghĩ đến hậu quả nếu cứu A Phủ nhưng vẫn quyết định cởi trói giải thoát cho A Phủ.
  •  Đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo A Phủ xin theo cùng.

Phân tích nhân vật A Phủ.

+) Lai lịch:

  • Chàng trai nghèo, mồ côi cha mẹ.
  • Khỏe mạnh, thông minh, lao động giỏi.

+) Tính cách:

  • Sức sống mạnh mẽ, yêu tự do.
  • Gan góc, ngang tàng dám đánh nhau với con quan khi vô lý.
  • Dũng cảm.

+) Hoàn cảnh đau thương.

  • Bị bắt vì dám đánh kẻ phá đám ở cuộc chơi, phải làm người ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp.
  • Vì để hổ ăn mất bò, mà bị trói bị bỏ đói.

Danh sách các mẫu tóm tắc tác phẩm Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất

vo-chong-a-phu

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 1

Câu chuyện kể về hai con người H’mông (Mèo): Mị và A Phủ. Mị hiếu thảo, giàu sức sống, yêu đời nàng vì lòng hiếu thảo quyết định lấy A Sử giúp gia đình thoát nợ. Còn A Phủ vì đắc tội với A Sử nên bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm công trừ nợ. Mị say mê, yêu đời nhưng suốt ngày lầm lũi ít nói ít cười, làm công không thua gì con vật trong nhà.

Còn A Phủ bị đánh đập, tra tấn vì để hổ ăn mất bò. Cảm thông hoàn cảnh và cùng cảnh ngộ, Mị cởi trói cho A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra sau khi đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng với nhau. A Phủ sau này được cán bộ là A Châu giác ngộ theo cách mạng và trở thành du kích tham gia chiến đấu chống thực dân Pháp để bảo vệ quê hương, đất nước

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 2

Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng.

A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ.

Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3

Vợ chồng A Phủ câu chuyện kể về Mị cô gái xinh đẹp,hiền lành nhưng buộc phải làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ cho gia đình. Về làm vợ cho A Sử nhưng nàng trở nên ít nói, ít nói, lầm lũi. Trong dịp tết đến, Mị nghe được tiếng sáo khiến nàng trở nên bồi hồi và muốn đi chơi nhưng A Sử ngăn cản.

Trong một lần trêu gái, A Sử bị A Phủ đánh, vì tức giận A Sử bắt A Phủ về. Tại đây, A Phủ bị bắt đền bù và làm công tại nhà trừ nợ. Nhìn thấy, A Phủ bị trói, bị đánh đập Mị nghĩ về cuộc đời mình. Nàng tủi thân và đồng cảm với số phận A Phủ nên quyết định cắt dây trói và giải thoát cho A Phủ. Mị cùng với A Phủ đến Phiềng Sa trở thành vợ chồng và A Phủ giác ngộ với cách mạng.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 4

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lí Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà.

Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 5

Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma.

Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay.

A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 6

Mị là một cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giỏi giang, yêu đời, thích tự do. Chỉ vì bố mẹ Mị vay nợ nhà thống lí Pá Tra để cưới nhau không trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho gia đình này. Làm vợ A Sử, Mị phải sống kiếp nô lệ khổ nhục, chỉ muốn chết, nhưng vì thương bố và sợ thần quyền nên Mị đành câm lặng chịu đựng.

A Phủ là một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi, rất dũng cảm, nhiều cô gái mê, nhưng vì nhà nghèo nên không cưới được vợ. Trong hội xuân, A Phủ đã đánh A Sử nên bị thống lý Pá Tra bắt về đánh đập và phạt vạ 100 đồng bạc trắng. Không có tiền nộp phạt, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí để trừ nợ. Do sơ ý để cọp vồ mất một con bò nên A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cọc chờ chết, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Cả hai cùng trốn khỏi Hồng Ngài.

Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, nỗ lực xây dựng cuộc sống mới. Quân Pháp tràn tới, dân Phiềng Sa lại hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến, A Phủ kết nghĩa anh em với A Châu. Rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương .

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ  – Mẫu 7

Tô Hoài đã có trên 150 tác phẩm với nhiều đề tài và nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, hồi kí, kinh nghiệm sáng tác… Trước cách mạng, Tô Hoài nổi tiếng với truyện Dế mèn phiêu lưu kí. Sau năm 1945, có Truyện Tây Bắc, Mười năm, Miền Tây, Cát bụi chân ai,… Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

Tô Hoài là nhà văn đa phong cách. Ông viết truyện thiếu nhi, truyện người lớn. Thể loại nào cũng để lại dấu ấn riêng. Tuy nhiên cũng như tính cách ông, văn phong ông điềm đạm, không dễ “nổi nóng”, giản dị, trong sáng, đầy cảm xúc, hóm hỉnh với nhiều triết lí thâm trầm.

Truyện kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc trải qua bao nhiêu sóng gió cuối cùng nên duyên vợ chồng. Vợ A Phủ là Mị là cô gái vừa xinh đẹp lại có tài thổi sáo hay chính vì tài sắc vẹn toàn nên cô được nhiều trai làng để ý. Cha Mị ngày xưa vì nợ thống lí Pá Tra khoản nợ lớn cho nên hàng năm dù nai lưng ra làm vẫn không đủ trả cho họ. Nhà thống lí giàu, con trai A sử nhiều lần ngỏ ý muốn lấy Mị nhưng Mị không đồng ý nhưng sau một đêm Mị đã bị A sử lừa bắt về làm vợ từ đó Mị sống trong cảnh bị bạo hành vùi dập, đối xử không giống như đối với một con người.

Không chịu được nhục nhã Mị đã có nhiều lần định tự tử nhưng nghĩ rằng mình chết đi rồi cha mình lại nợ càng thêm nợ, cho nên đành vì cha mà câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Đến ngày tết Mị chỉ biết lén uống rượu một mình mong muốn quên đi thực tại đau khổ nhưng càng uống càng tỉnh

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ  – Mẫu 8

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, người Hà Nội (bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức). Là một nhà văn có nguồn sáng tạo dồi dào – một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình thợ thủ công, vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất nghiệp.

Tính từ khi khởi nghiệp văn – năm 1940 – cho đến nay, Tô Hoài chuyên viết và có đóng góp đặc sắc trên bốn mảng đề tài: vùng quê ngoại thành Hà Nội – hiện tại và lịch sử; miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội; sáng tác cho thiếu nhi; chân dung và hồi ức.

Những ý nghĩ ấy thúc đẩy Mị đi đến hành động cởi trói cho A Phủ rồi chạy theo A Phủ, thoát ra khỏi cái địa ngục trần gian tại nhà thống lí Pá tra. Nghệ thuật Nghệ thuật kể chuyện khéo léo, kết hợp trần thuật theo quan điểm tác giả và trần thuật theo quan điểm nhân vật; khắc hoạ tinh tế các quá trình tâm lí nhân vật; nghệ thuật tả cảnh, dựng cảnh sống động; ngôn ngữ tác phẩm trong sáng, thanh thoát, nhuần nhị mang phong vị miền núi đậm đà… đó chính là những yếu tố khẳng định tài năng trong nghệ thuật văn xuôi của Tô Hoài.

Nhất là tiếng sáo gọi bạn tình lại khiến cho Mị lại được sống lại những ngày hạnh phúc trong tình yêu của mình. Định thay áo váy đi chơi nhưng nào ngờ A sử từ đâu về bắt trói Mị bằng dây đay bằng một cách tàn nhẫn. Dù bị trói nhưng trong cơn nửa tỉnh nửa mê mị vẫn mơ theo những cuộc chơi những cuộc vui mà hồi trẻ Mị vẫn thường tham gia cho tới lúc vùng bước đi mới hay mình vẫn đang bị trói.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 9

Tập Truyện Tây Bắc được Tô Hoài viết năm 1952, gồm có 3 truyện: Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn, Cứu đất cứu mường. Tập truyện là kết quả của một chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài đi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập truyện này.

Ông viết về loài vật nhưng lại quá đỗi giống thân phận đời người. Ông yêu chữ và cố công tích cóp chữ của cõi nhân sinh để làm giàu cho trang viết của mình. Trả lời câu hỏi của Văn Cầm Hải: Sức đâu mà chữ nhiều thế? Ông tủm tỉm cười: “Một phần là trời cho, một phần là đọc, lượm lặt chữ của nhân gian, chữ của giời – ông chỉ tay ra ngoài khung cửa xanh – như cô hàng bánh nói gì, mình cũng phải học.

Các anh trẻ bây giờ nhiều người viết được nhưng viết hay thì hiếm quá. Suốt đời tôi chỉ làm một người nhặt chữ. Văn chương nghệ thuật thì vô cùng nhưng suy cho cùng phải là người giỏi chữ. Anh có tư tưởng lớn lao đến đâu mà không giỏi chữ, anh không thể trở thành nhà văn”.

Vợ chồng A Phủ tập trung khắc hoạ 2 nhân vật là Mị và A Phủ. Trong đó, Mị là nhân vật trung tâm, là linh hồn của truyện. Mở đầu tác phẩm, người đọc bị thu hút ngay bởi hình ảnh người con gái “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Đó là Mị – cô con dâu của nhà thống lí Pá Tra – một chúa đất đầy quyền thế.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 10

“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài viết về người dân vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện kể về hai nhân vật chính là Mị và A Phủ. Mị là cô gái H’mông xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay, được nhiều chàng trai theo đuổi. Mỗi khi tết đến xuân về trai gái đều hò hẹn nhau để cùng vui chơi, ca hát.

Năm ấy, Mị đi chơi bị con trai nhà thống lí Pá Tra là A Sử bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ do năm xưa khi bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới hỏi phải đến vay nhà thống lí. Mỗi năm phải trả lãi một nương ngô nhưng mãi vẫn chưa trả được nợ.

Lúc đầu cô không chấp nhận làm vợ A Sử định ăn lá ngón tự tử nhưng nghĩ về bố – người cha già đã vất vả nuôi cô khôn lớn, cô không đành lòng chết. Từ đây, cuộc sống của Mị không còn vui vẻ nói cười mà thay vào đó là sự khổ sở hơn kiếp trâu ngựa làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm hết năm này qua năm khác.

Cuộc sống của Mị cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” chẳng nói chẳng rằng. Một mùa xuân nữa lại đến. Hôm ấy Mị uống rượu, cô thấy trong lòng phơi phới, nghe tiếng sáo gọi bạn tình Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử phát hiện. Hắn trói Mị vào cột nhà bằng thúng sợi đay và tóc của cô.

Trong đêm mê man, tiếng sáo thúc giục cô bước chân đi chợt thấy nhói đau, ê ẩm người mới sực nhớ ra là đang bị trói. May mắn cho Mị là có chị dâu – những người phụ nữ cùng kiếp nô lệ cởi trói cho cô.

A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ ơn trời anh rất khỏe mạnh, chăm chỉ lao động. Trong đêm mùa xuân ấy, vì bất bình trước thái độ ngang tàn, bạo ngược của A Sử mà đánh hắn trọng thương nên bị làng bắt vạ phải nộp 100 lạng bạc trắng nhưng không có tiền đành phải đi ở trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Công việc của A Phủ là chăn đàn bò, trong một lần không may anh để hổ bắt mất một con liền bị thống lí Pá Tra trừng phạt trói vào cột nhà nhịn ăn, nhịn uống và chịu rét chờ A Sử bắn được hổ sẽ tha.

Lúc đầu nhìn cảnh tượng ấy Mị thản nhiên, hờ hững nhưng rồi lòng thương người cũng trỗi dậy khi nhìn thấy hai hàng nước mắt chảy xuống hõm má trên gương mặt tiều tụy đáng thương của A Phủ. Cô đã dũng cảm cắt dây cởi trói cho A Phủ, hai người cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, họ nên đôi vợ chồng và cùng tham gia cách mạng.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 11

Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đôi nam nữ người H’ Mông, người con gái tên là Mị và người con trai là A Phủ. Khi xưa, cha mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền đã phải vay tiền của cha thống lí Pá Tra, món nợ ngày càng nhiều chưa thể trả nhưng Mị vẫn nhất định không lấy A Sử – con trai thống lí Pá Tra để xóa hết nợ.

Một đêm nọ, Mị bị A Sử bắt về nhà. Tại nhà thống lí Mị bị đối xử thậm tệ còn thua con trâu con ngựa. Không chịu tủi nhục Mị định tự tử nhưng không đằng chết tại nhà A Sử vì thương cha già. Khổ nhiều cũng thành quen, một cái Tết nữa đến, Mị uống rượu và nghe tiếng sao gọi bạn tình nhớ lại ngày xưa, Mị có ý định đi tìm hạnh phúc, khi chuẩn bị đi chơi thì lại bị A Sử bắt trói đứng.

A Phủ chàng trai hiền lành, khỏe mạnh, vì bất bình đã đánh A Sử nên đã bị bắt về lao động không công để trừ nợ, chàng trai bắt đầu cuộc sống tại nhà lí trưởng. Trong một lần A Phủ đi chăn bò không cẩn thận đã để hổ vồ mất bò nên bị A Phủ phạt bị trói đứng ở góc nhà, không cho ăn cho uống nhiều ngày liền đến kiệt sức. Mị thấy vậy nhưng hoàn toàn không có cảm giác nhưng khi nhìn thấy A Phủ khóc vì đói, rét, kiệt sức, tuyệt vọng Mị động lòng thương và thấy hai người cùng cảnh ngộ đã quyết định cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng nhau bỏ trốn thật xa.

Cả hai chạy trốn thật nhanh đến Phiềng Sa rồi kết duyên thành vợ thành chồng. A Phủ gia nhập với cách mạng kết thân với các cán bộ A Châu và A Phủ cùng nhau chống giặc Pháp xâm lược, bảo vệ quê hương.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 12

Vợ chồng A Phủ là câu chuyện kể về cuộc đời của cô gái trẻ xinh đẹp tên là Mị, sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Hồng Ngài. Mị bị A Sử trong làng bắt cóc về làm vợ để gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cuộc đời Mị lại tiếp tục những chuỗi ngày nghèo khổ và cơ cực hơn gấp ngàn lần, hàng ngày cô phải lao động quần quật không kể trời nắng hay mưa, vất vả hơn cả con trâu, con ngựa.

Mùa xuân, mùa của ngày hội đến, Mị uống rượu, tiếng sáo gọi bạn tình làm Mị muốn đi chơi, muốn được ra ngoài, nhưng A sử không cho, trói chặt Mị ở trong buồng. A Sử bị đánh vì gây sự với đám trai làng, lúc đó, Mị mới được cởi trói để đi lấy thuốc, xoa dầu cho chồng.

Cũng đêm đó, A Phủ một chàng trai khỏe mạnh, giỏi lao động nhưng vì nghèo và mồ côi, do đánh A Sử nên A Phủ đã bị phạt vạ phải làm ở đợ cho nhà thống lí để trừ nợ. Mùa đông gió rét kéo đến, rừng đói, hổ báo kéo đến phá nương, phá rẩy, ăn thịt trâu bò. Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò, nên đã bị trói đứng, bỏ đói mấy đêm liền, chờ khi A Sử bắn được hổ mới tha cho.

Một đêm, Mị trở dậy thổi lửa để sưởi ấm, thì bắt gặp hai dòng nước mắt trên gò má A Phủ. Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ, Mị thương thay cho cả thân phận mình. Mị đã cắt đứt dây trói và cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống lí Pá Tra.

Cả hai chạy trốn trong đêm, băng qua những cánh rừng để đến Phiềng Sa, họ thành vợ thành chồng xây dựng một cuộc sống mới. A Phủ đến với cách mạng, họ theo cán bộ A Châu và A Phủ trở thành đội trưởng du kích. Họ cầm súng đánh đuổi giặc thù bảo vệ gìn giữ bản làng.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 13

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mị là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mị đã có người yêu. Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử – con trai thống lí Pá Tra để xoá nợ.

Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ. Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.

Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.

Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa. A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.

Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn toàn vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mị đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.

Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 14

Mị là cô gái tự do, xinh đẹp, có nhiều tài lẻ và được nhiều người theo đuổi. Một đêm, nghe tiếng bước chân ở vách nhà, tưởng người yêu mình, Mị đưa tay ra thì bị A Sử – con trai thống lí Pá Tra bắt đi. Hôm sau, Mị bị trình ma làm dâu nhà thống lí để trả nợ ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau vay tiền của nhà lão.

Thời gian đầu, Mị vô cùng phiền muộn, cô luôn nghĩ đến cái chết để được giải thoát, nhưng khi nghe lời cha can ngăn và nghĩ đến hoàn cảnh của cha mình, Mị không nỡ ăn lá ngón tự tử mà quay về tiếp tục làm con dâu gạt nợ. Ngày qua ngày, Mị lầm lũi như con rùa trong xó cửa, hàng ngày lặp đi lặp lại những việc làm như một cái máy, cảm xúc trong Mị bị chai sạn, cô không vui cũng không buồn.

Ngày tết, Mị lén uống rượu, khi Mị đã ngà ngà say, tiếng sáo diều đưa Mị về những ngày tươi đẹp trước, Mị thấy bổi hổi bồi hồi, sống lại bao kỉ niệm. Mị quyết định sắm sửa đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt và trói đứng ở cột nhà không cho đi. Đêm đến, Mị vẫn miên man trong cơn say nhưng khi tỉnh rượu, Mị thấy đau và sợ.

A Sử bị A Phủ đánh, Mị được cởi trói để đi hái thuốc cho chồng, Mị chăm sóc A Sử nhưng còn bị hắn đánh. Mị nghe thấy người ta đánh đập A Phủ, từ đó A Phủ phải làm thuê cho nhà thống lí để trả nợ vì đánh A Sử. Một hôm A Phủ làm mất bò, lại bị nhà thống lí đánh, trói ở góc nhà. Mấy hôm liền, Mị không quan tâm nhưng đến khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị động lòng thương cảm, cắt dây cởi trói và cùng A Phủ bỏ trốn đến Phiềng Sa.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 15

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, đôi vợ chồng người Mông ở vùng núi Tây Bắc. Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, được nhiều trai làng say mê. Tuy sinh ra trong gia đình nghèo khó, bố mẹ lại có món nợ với nhà thống lí, Mị kiên quyết xin cha cho mình làm nương ngô trả nợ.

Nhưng một đêm mùa xuân, A Sử lừa bắt Mị về trình ma để làm vợ nó. Không chấp nhận kiếp con dâu gạt nợ, Mị định tự tử để tự giải thoát nhưng vì thương cha, cô đành vứt nắm lá ngón xuống đất và cam chịu cuộc sống địa ngục trần gian trong nhà thống lí. Ở đây, cô bị bóc lột sức lao động đến xương tủy, bị hành hạ cả về thể xác và tinh thần.

Lâu dần, Mị trở nên dửng dưng, cam chịu, vô cảm. Cha Mị chết đi, Mị cũng không nghĩ đến chuyện tự tử nữa. Một đêm tình mùa xuân, cảnh sắc Hồng Ngài cùng men rượu và tiếng sáo khơi dậy trong Mị những cảm xúc đã mất từ lâu. Cô nhớ về quá khứ tươi đẹp và muốn sửa soạn đi chơi như bao người khác, A Sử thấy vậy liền trói đứng cô vào cột bằng cả thúng dây đay và mái tóc dài của cô. Mị đau khổ nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa.

Cũng đêm đó, A Sử đi chơi gây sự với trai làng bị A Phủ đánh trọng thương, Mị được cởi trói để chăm sóc chồng. A Phủ bị xử kiện, bị đánh đập và trở thành người ở gạt nợ cho thống lí. Sau đêm đó, Mị trở về vô cảm, dửng dưng như trước.

Mấy năm sau, một lần A Phủ mải bẫy nhím để hổ bắt mất bò của thống lí. A Phủ bị trói đứng vào cột, bị bắt nhịn đói nhịn khát suốt mấy ngày trời. Ngày nào Mị cũng ra sưởi lửa hơ tay nhưng không mảy may để ý gì đến A Phủ. Đến khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị hồi tưởng lại đêm năm nào mình cũng bị trói như vậy. từ thương mình đến thương người, Mị càng căm hận sự độc ác của cha con thống lí.

Đỉnh điểm của tình thương, Mị lấy dao cắt dây trói giải thoát cho A Phủ nhưng nghĩ đến việc mình ở lại nhất định sẽ chết, Mị chạy theo bỏ trốn cùng A Phủ. Hai người đỡ nhau chạy trốn sang Phiềng Sa. Ở đây, họ thành vợ thành chồng và theo A Châu làm cách mạng, đánh Pháp bảo vệ quê nhà

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 16

Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời của hai thanh niên người thiểu số dân tộc H’Mông (Mèo): Mị và A Phủ. Mị là một cô gái đẹp, hiếu thảo, đảm đang, giàu sức sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Chỉ vì một món nợ từ hồi cha mẹ mới cưới nhau mà Mị bị thống lí Pá Tra bắt về làm dâu trừ nợ, thực chất là làm nô lệ không công cho nhà thống lí.

Kể từ khi bước chân vào nhà thống lí, Mị phải sống những tháng ngày tăm tối, bị đày đọa về thể xác, bị giày đạp về tinh thần. Mị phải lao động quần quật như con trâu, con ngựa. Đã có lần Mị muốn chết nhưng sợ liên lụy đến bố mẹ lại thôi, tiếp tục trở về cuộc đời nô lệ.

Cuộc sống đau khổ đã cướp đi mất tuổi thanh xuân của Mị, làm cho cô gần như tê liệt sức sống, cứ vật vờ như chiếc bóng, “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cho đến một đêm mùa xuân náo nức, tiếng sáo gọi bạn tình bồi hồi tha thiết vọng đến tai Mị đã đánh thức trong tâm hồn cô niềm khao khát hạnh phúc và tình yêu mãnh liệt.

Mị chuẩn bị áo váy đi chơi ngày xuân. Nhưng rồi chồng Mị đã vùi dập phũ phàng ngọn lửa ham sống vừa bùng lên đó. Hắn bước vào buồng, thản nhiên trói Mị vào cột nhà. Cùng trong đêm ấy, hắn phá đám cuộc chơi của trai làng nên bị A Phủ đánh trọng thương. Ỷ vào thế quan, thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải làm đứa ở, lao động khổ sai để trả nợ.

Một lần, vì để hổ vồ mất con bò của nhà thống lí, A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn và bị trói đứng vào trong góc nhà suốt mấy ngày. Cảm thông cho người cùng cảnh ngộ, Mị đã cởi trói cho A Phủ và cùng nhau chạy trốn khỏi nhà thống lí ở Hồng Ngài, tìm đến Phì Sa. Họ nhận nhau là vợ chồng. Họ được cán bộ là A Châu giác ngộ, dìu dắt, cả hai lần lượt trở thành du kích, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai để giải phóng bản thân, quê hương mình.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ – Mẫu 17

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mị là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma và làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Ngày này qua ngày khác dần dần Mị trở nên vô cảm và nghĩ mình không bằng con trâu con ngựa, chỉ biết làm những việc lặp đi lặp lại, Mị cũng chẳng còn buồn nữa.

Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi.

Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt. Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về làng đánh đập dã man và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ. Một hôm A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò.

A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha. Mị đã nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mị đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta. Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng.

Hy vọng với những thông tin chúng tôi chia sẻ liên quan đến tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ sẽ giúp các bạn phần nào hiểu hơn về câu truyện và có thể làm được bài tập liên quan đến cậu truyên được hiệu quả hơn

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *