Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu cực hay và ngắn gọn
Có thể nói chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Minh Châu thể hiện vai trò mở đường sau đổi mới. Chính vì vậy, THPT Chuyên Lam Sơn sẽ phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa giúp các em hiểu hơn về cuộc sống của con người thời hậu chiến với tất cả những phức tạp, đa chiều, qua đó thấy được cách nhìn và quan niệm nghệ thuật đầy sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Tham khảo thêm:
- Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường cực hay và ngắn gọn nhất
- Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân cực hay và ngắn gọn nhất
- Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay, ngắn gọn nhất
Nội Dung
Đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu – Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
Cuộc đời của Nguyễn Minh Châu
– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
– Năm 1945 ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế.
– Năm 1950 ông gia nhập Quân đội và học trường Sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn.
– Từ năm 1952 đến năm 1958 ông làm việc tại Sư đoàn 320.
– Năm 1962 ông công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội.
– Năm 1972 ông là thành viên Hội nhà văn Việt Nam.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu
+) Phong cách nghệ thuật: Phong cách của ông là phong cách tự sự – triết lý đậm nét.
+) Tác phẩm chính: Các tác phẩm chính của ông là: Sau một buổi tập (1960); Cửa sông (1966), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Phiên chợ Giáp (1989),…
+) Vị trí, tầm ảnh hưởng:
- Cây bút văn xuôi tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Trước những năm tám mươi, ông sáng tác theo khuynh hướng sử thi thiên về trữ tình, lãng mạn. Sau đó, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, triết lý nhân sinh.
- Là người mở đường tinh anh, cây bút tiên phong trong văn học thời kì đổi mới.
Giới thiệu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
+) Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời:
- Truyện in đậm phong cách tự sự – triết lý của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
- Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
+) Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa
- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
→ Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật!
+) Bố cục: Có nhiều cách chia, ta có thể chia làm 2 đoạn lớn:
- Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
- Đoạn 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.
+) Giá trị nội dung:
- Khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp tiềm ẩn của con người.
- Đề cao vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đầy chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lý nhân sinh sâu sắc, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người.
+) Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo.
- Điểm nhìn là nhân vật Phùng (sự hóa thân của tác giả) nên cách kể truyện tự nhiên, khách quan, sinh động, chân thực nhưng cũng vô cùng sắc sảo, đồng thời thể hiện được tư tưởng của tác giả.
- Ngôn ngữ tự nhiên, sống động và phù hợp với đặc điểm tính cách nhân vật.
Danh sách mẫu phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu chi tiết nhất
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1
Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.
Thân bài
1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh
+) Phát hiện “cảnh đắt trời cho”
– Phùng là người say mê nghệ thuật trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,
- Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích. Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.
- Phùng bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.
+) Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí
– Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhận thấy:
- Người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền.
- Lão chồng “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”.
- Trong khi ấy, người đàn bà chỉ cam chịu, không kêu van, hay chống trả, chạy trốn.
– Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được.
– Nhận xét: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong
+) Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện
– Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên li hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa …đừng bắt con bỏ nó”, theo chị:
- Người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động.
- Chị không thể một mình nuôi nấng trên dưới 10 đứa con, vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận”.
– Qua câu chuyện và thái độ của người đàn bà, có thể nhận thấy người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc.
– Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:
- Cả hai đều thấy giận dữ và bất bình
- Nhưng sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.
⇒Nhận xét: Ban đầu, họ quen nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), chỉ biết qua lí thuyết sách vở, không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.
– Bài học rút ra: phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng đánh giá bản chất.
+) Tấm ảnh được chọn
– Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tâm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:
– Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:
- “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).
⇒ Nhận xét: nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.
Kết bài
- Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm.
- Giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn. Khắc họa nhân vật sắc sảo, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, …
- Tác phẩm đã đem đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người: phải nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện bản chất đằng sau vẻ bề ngoài của hiện tượng.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 2
Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu và Chiếc thuyền ngoài xa.
Thân bài
+) Hai phát hiện của Phùng
Phát hiện thứ nhất:
- Nguyên nhân: trưởng phòng yêu cầu Phùng chụp tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu để phục kích.
- Phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần: con thuyền kéo lưới đang tiến vào bờ, vài bóng người im phăng phắc. → Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích.
⇒ Bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Dường như anh đã bắt gặp cái thiện, mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời.
Phát hiện thứ hai:
- Khi con thuyền tiến vào bờ, Phùng chứng kiến nghịch lí, đằng sau vẻ đẹp của con thuyền khi nãy là cảnh tượng gã thuyền chài lôi vợ mình lên bò đánh đập dã man, vừa đánh vừa hết lời mắng nhiếc, chửi rủa. → Chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện.
- Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác – con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
⇒ Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời.
+) Nhân vật người đàn bà làng chài
– Ngoại hình:
- Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
- Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.
– Tính cách, phẩm chất:
- Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.
- Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
⇒ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.
– Giàu tình yêu thương:
- Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.
– Vị tha, bao dung:
- Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con.
- Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.
– Thấu hiểu lẽ đời:
- Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
+) Đánh giá chung
- Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.
- Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
Kết bài
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 3
Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu được đánh giá mang tính chất tự sự và triết lí. Mỗi tác phẩm ông viết lên luôn nhằm khám phá, phát hiện ra muôn vàn vẻ đẹp của cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc của họ, được viết năm 1983, khắc họa cái lãng mạn của nghệ thuật và sự trần trụi của hiện thực đời thường.
Nhận được yêu cầu của thủ trường, Phùng đã mang máy ảnh về vùng chiến trường cũ, chụp một bức tranh kiệt tác để hoàn thành bộ lịch năm nay. Và trong lần ấy người nghệ sĩ đã chiêm nghiệm được biết bao chuyện, biết bao điều trong cuộc sống đầy những lo toan, vất vả này.
Sau những ngày chật vật, quả thực hôm đó người nghệ sĩ Phùng đã gặp vận may hiếm có, cảnh đẹp trời cho hiện ngay trước mặt Phùng. Anh không chần chừ, vội vàng lôi máy ra tác nghiệp, khung cảnh trước mắt hiện ra vô cùng diệu kì: “thuyền in một nét mơ hồn lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Đằng sau bức tranh toàn bích kia lại là một hiện thức làm người ta nhói lòng. Trong cảnh thanh tĩnh là tiếng gầm ghè, đầy phẫn nộ “cứ ngồi nguyên đây, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ” rồi hình ảnh người đàn bà dần dần lộ diện, to lớn, thô kệch đi sau người đàn ông hung ác, độc dữ. Những gì xảy ra sau đó làm cho Phùng quá đỗi bất ngờ và choáng váng.
Người đàn ông rút chiếc thắt lưng, vừa quất tới tấp vào người đàn bà. Nhưng kì lạ thay người phụ nữ đó không hề kêu than lấy một tiếng, Điều đó làm Phùng “há mồm mà nhìn” vô cùng “kinh ngạc”. Sau nỗi kinh ngạc, Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống vội vàng can ngăn. Thì chính lúc này, một cái bóng nhỏ con lao vụt đến, nhắm thẳng vào người đàn ông.
Người mẹ tội nghiệp, gọi tên đứa con “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…”, khiến người đọc không khỏi xót thương, xúc động. Tất cả những hình ảnh đó làm Phùng bàng hoàng, đau đớn. Rất nhanh gia đình nọ rời đi, khung cảnh trở về cảnh thanh tĩnh như nó vốn có.
Với Phùng đây có lẽ là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: “chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì trần trụi, ở ngay trước mắt”. Phùng đau đớn vì trước nay cái nhìn của mình quá giản đơn, xuôi chiều, mà hiện thực cuộc sống lại vô cùng đa đoan, phức tạp.
Quả thực qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ta lại càng thấy rõ hơn không chỉ thể đánh giá một con người, một sự việc qua vẻ bề ngoài của nó. Sự việc, con người vốn nông sâu khôn lường, nếu không truy nguyên, không lắng lòng để nghe thì cả đời này chúng ta chỉ là những kẻ hời hợt, đi đánh giá mọi chuyện bằng con mắt thờ ơ.
Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm này phải kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống bất ngờ, hấp dẫn. Nhà nhiếp ảnh phát hiện khoảnh khắc trời cho, nhưng đằng sau đó lại là cảnh bạo lực tàn nhẫn. Cho người đàn bà đến để nói chuyện, để phân tích lí giải nhưng nào ngờ chính Phùng và Đẩu lại được người phụ nữ tưởng như thô kệch ấy làm cho “sáng mắt”. Giúp họ hiểu hơn những quanh co, uẩn khúc trong cuộc đời, từ đó có những nhận xét đánh giá đứng đắn trước bất cứ sự việc, hiện tượng nào.
Với tình huống truyện đặc sắc, chân thực Chiếc thuyền ngoài xa mang giá trị nhân đạo và nhân bản sâu sắc. Cuộc đời này gồm cả rồng phượng, gồm cả đúng sai, tốt xấu. Bởi vậy khi đánh giá bất cứ điều gì cũng không nên hời hợt. Cuộc sống này vô cùng phức tạp, để hiểu nó cần phải soi ngắm từ nhiều phía, nhiều góc cạnh. Bài học cho Phùng và Đầu cũng chính là những gì Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến các thế hệ bạn đọc.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 4
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực.
Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kì lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng.
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.
Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó, như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào”, trong cái giây phút bối rối ấy Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn”.
Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.
Tác giả mô tả bức tranh tuyệt vời kia đồng thời với cuộc sống của một gia đình làng chài, một gia đình nhiều đau thương. Ở đó, tác giả tập trung thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài mang số phận bất hạnh, hằng ngày chịu bi kịch của bạo lực gia đình.
Một người đàn bà vô danh, xấu xí nhưng bao dung, vị tha và hiểu lẽ đời sâu sắc. Một người đàn bà điển hình cho vẻ đẹp khuất lấp của phụ nữ miền biển nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.
Người đàn bà ấy ngoài 40, cái tên cũng không có, khi tác giả gọi là “mụ”, khi gọi là “chị ta”. Người đàn bà ấy có một ông chồng chỉ biết say xỉn, chửi bới và đánh đập. Nhưng bằng tình thương yêu con cái, chị vẫn cố gắng bám lấy biển, giữ lấy nhà, đùm bọc con cái.
Chị nhẫn nhịn chịu đánh, “3 ngày trận nhẹ, 5 ngày trận nặng” bởi chị hiểu rằng con thuyền giữa biển khơi cần một người đàn ông chèo chống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công.
Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.
Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?
Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người. Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 5
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính.
Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người.
Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, in trong tập truyện cùng tên năm 1987.Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983 được in trong tập truyện ngắn cùng tên, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi.
Đất nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra
Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ”Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến “giữa phá” là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện. Và phần ba còn lại – tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một buổi sáng mờ sương ở một phá nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp trên giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy.
Anh đã đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được nhiều điều trong cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.
Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người.
Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện.Tình huống truyện của ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ là tình huống nhận thức, khám phá. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý.
Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người.
Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng. Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc thuyền trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ Cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy.
Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức.
Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân – thiện – mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết.
Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân – thiện – mĩ, cái đẹp là đạo đức.Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy.
Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.
Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ “trạc ngoài 40”, “mặt rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới” … dường như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy.
Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: “có tấm lưng rộng”, đi chân chữ bát khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài.Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ.
Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két..”.
Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông… liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”.
Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa.
Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).
Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn.
Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.
Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu.
Chính vì vậy người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là li hôn với chồng. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình.
Những lời tâm sự của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều.Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả, nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn.
Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam chịu, nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con nhìn thấy bà xin chồng đánh khi vào bờ.
Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết lòng tốt của họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Người đàn bà chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con được ăn no.
Thị nhận lỗi, cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của Phùng, Đẩu và thằng Phác người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án. Nhưng với người vợ thấu hiểu và cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc sống nghèo khổ quá nên mới như vậy.
Từ đó cho thấy người đàn bà hàng chài tuy là một người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt nam. Thị là người chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một người vị tha và sâu sắc lẽ đời.
Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này.
Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình. Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật.
Điều này khẳng định giá trị nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh, khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ.
Như vậy nếu hiểu bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì Nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.
Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 6
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế.
Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ.
Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm.
Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.
Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.
Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.
Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ.
Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua. Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục.
Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt.
Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta.
Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.
Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 7
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt. Trước thập kỉ 1980, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn. Từ đầu thập kỉ 1980 cho đến khi mất, cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh đã trở thành mạch nguồn văn chương dồi dào trong ông.
Và “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là một tác phẩm văn học nổi tiếng thuộc giai đoạn thứ hai, là đại diện tiêu biểu cho hành trình sáng tạo nghệ thuật lấy với tâm điểm là con người trong công cuộc mưu sinh, trong quá trình nhọc nhằn đi tìm hạnh phúc.
“Chiếc thuyền ngoài xa” kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh đi tìm kiếm ngoại cảnh để chụp những bức ảnh đẹp ở một bãi biển miền Trung. Ở đây anh đã phát hiện một cảnh “đắt” trời cho mà có lẽ suốt một đời cầm máy anh chưa bao giờ thấy.
Nhưng đằng sau bức ảnh thiên nhiên lãng mạn được phủ bởi lớp sương mù trắng có pha màu hồng là một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài. Cảnh đói nghèo và bạo hành gia đình diễn ra ngay trước mắt. Hóa ra, cái đẹp của nghệ thuật không hề trùng khít với cái đẹp của cuộc sống.
Trong buổi tòa ở huyện, nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài hôm trước và cũng thông qua người đàn bà này, anh bắt đầu ngộ và vỡ lẽ ra nhiều điều trong cuộc sống. Tác phẩm được mở ra bằng hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
Phát hiện thứ nhất là về nghệ thuật, sau một tuần “phục kích” ở bãi biển, Phùng cũng đã tìm được cho mình một cảnh “đắt” trời cho. Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và khoáng đãng hiện ra trước mắt, thu trọn cả tâm hồn anh “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”…
Phùng đã không ngại ngần gì nữa mà bấm “liên thanh” như muốn đem tất cả những vẻ đẹp kia đặt trọn vào ống kính của mình. Cái đẹp bên ngoài của sự vật đã làm cho người nghệ sĩ kia ngẩn ngơ tức thì. Phát hiện thứ hai là về cuộc đời, ẩn giấu đằng sau vẻ đẹp nghệ thuật là sự thật đầy nghịch lí, xót xa.
Phía sau bức tranh thiên nhiên tươi đẹp là bức tranh hiện thực đầy khắc nghiệt, lem lấm những bước đường mưu sinh của con người. Đó là người vợ xấu xí, thô kệch, mệt mỏi và cam chịu. Đó là người chồng bạo hành, xem việc trút xuống vợ mình những cơn giận dữ bằng chiếc thắt lưng quật tới tấp xuống lưng là niềm giải tỏa “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Ẩn đằng sau cái đẹp toàn bích lại là sự tàn nhẫn khôn cùng. Tất cả hiện thực cuộc sống phơi bày trước mắt Phùng vô cùng bất ngờ, trớ trêu, quái ác.
Nguyễn Minh Châu ngay từ đầu cũng đã khéo léo đan cài điều ấy vào nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” – cái tên dễ liên tưởng đến một cái tên khác: “ngoài xa” – “vào gần”. Ngoài xa, chiếc thuyền là một biểu tượng của cái đẹp, của sự toàn bích, của khát khao thu trọn từng khoảnh khắc lãng mạn, nên thơ ấy bằng sự xúc động của một nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Vào gần, đó là bức tranh cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, gai góc và phức tạp khôn cùng, nó đã được bao phủ bởi lớp sương hồng mờ ảo mà nếu không chịu khó vén mở, tất cả đều bị đánh lừa. Phùng kinh ngạc trước hoàn cảnh đó, ban đầu “cứ đứng há hộc mồm ra mà nhìn”, sau đó đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã mang tới ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm, có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Trước hết, đó mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Đánh giá sự vật nếu chỉ dừng lại ở vẻ đẹp, vẻ hấp dẫn bên ngoài tức là bỏ qua chiều kích, ý nghĩa của bề sâu, là thoát li thực tại.
Ta thấy, tiếp cận hiện thực ở khoảng cách “ngoài xa” khó lòng thấm nhuần được những câu chuyện đằng sau bức tranh phong cảnh khi “vào gần”. Cũng cùng là một đối tượng, nhưng cách tiếp cận, thái độ tiếp cận khác nhau sẽ dẫn những muôn hình vạn trạng cuộc sống.
Câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện cũng là một nội dung quan trọng để mở ra những bài học sâu sắc cho người đọc. Số phận con người dần dần được thể hiện qua lời thoại của các nhân vật, từ đó mở ra chiều sâu triết lí cho tác phẩm. Qua lời kể của người đàn bà, Phùng dần có sự vỡ lẽ trong nhận thức, dần nhận ra sự đa chiều, phức tạp trong mỗi con người, mỗi hoàn cảnh.
Được tòa mời lên giải quyết việc gia đình, người đàn bà đã có mặt nơi toàn án, nơi làm việc của Đẩu – bạn thân của Phùng. Ban đầu, người đàn bà có vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, xưng là “con” và gọi Đẩu là “quý tòa”. Sau đó, chị đột ngột đổi sang xưng “chị”, gọi Phùng và Đẩu là “các chú”.
Sự xưng hô ấy có một ý nghĩa đặc biệt, từ một người đàn bà nhỏ bé, cam chịu đã trở thành một người thầy, một vị quan tòa chỉ dạy Phùng và Đẩu cách nhìn đời, nhìn cuộc sống.Ta thấy, dù chịu cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, từ đầu đến cuối, người đàn bà vẫn không chấp nhận từ bỏ chồng, dù cho Phùng và Đẩu có tốn bao nhiêu lời khuyên răn.
Cuộc đời của chị là trải dài của những bất hạnh, chị không chỉ sống cho riêng mình, mà còn vì chồng, vì con. Chị tự trách cảnh nghèo đói kia là do mình đẻ nhiều quá và cảm thông, thấu hiểu cho người chồng “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.
Chị hi sinh cả đời mình để sống cho con “đàn bà chúng tôi phải sống cho con chú không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Chị trân trọng, chắt chiu từng hạnh phúc nhỏ nhoi “vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
Từ đó, ta thấy, hình ảnh người đàn bà không thể chỉ nhìn ngắm đơn giản bên ngoài, không phải chỉ là người phụ nữ cam chịu, là nạn nhân của bạo hành, là người sinh ra với những đau thương như số mệnh an bài mà còn là đại diện cho sự nhẫn nhục của người mẹ, người vợ; là đại diện cho tình thương và trách nhiệm với con, với chồng, với gia đình.
Bức ảnh của nhiếp ảnh Phùng chính là kết tinh của một quá trình thăm dò, khám phá hiện thực cuộc sống một cách đa dạng, nhiều chiều “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi ảnh”.
Vẫn là hình ảnh “tấm lưng bạc phếch có miếng vá”, hình ảnh người đàn bà trong bức ảnh của Phùng đã để lại những dư ba trong lòng người đọc mãi về sau.
Về nghệ thuật, trước nhất Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xây dựng cốt truyện. Đó là cách tạo tình huống mang tính chất khám phá, phát hiện về đời sống, đặc biệt là thông qua hình ảnh người nghệ sĩ Phùng. Ban đầu, Phùng nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ. Sau đó, qua những biến cố, những sự kiện, nhận thức và cách nhìn nhận đã có sự biến chuyển, từ thơ mộng sang hiện thực, hiểu sâu hơn về người đàn bà, về chị em thằng Phác…
Bên cạnh đó, cách gọi tên phiếm định “người đàn bà hàng chài” như một cách gọi chung, nêu lên một số phận chung của những con người nhọc nhằn trong công cuộc mưu sinh. Cách miêu tả, xây dựng hệ thống ngôn ngữ phù hợp với những đặc điểm tính của nhân vật.
Lão đàn ông hiện lên với dáng hình thô bỉ, tàn nhẫn qua ngôn ngữ hung bạo, tục tằn. Người đàn bà thô kệch, xấu xí, bất hạnh kia được dựng lên bằng sự dịu dàng, yêu thương con và sự thấu hiểu lẽ đời…
Qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, chúng ta có thể hiểu vì sao Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “thuộc trong số những nhà văn mở đường cho tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.
Thông qua các nhân vật trong truyện, nhà văn đã cho ta thấy hành trình khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự với việc đặt con người, cách nhìn con người lên làm trung tâm của sáng tạo văn chương, nghệ thuật.
Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 8
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới với lối viết lãng mạn những vẫn chân thực và giàu cảm xúc. Khi chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, ông đã viết lên truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa với hai bức tranh đối lập nhau giữa cái đẹp toàn bích của nghệ thuật và sự thật đau đớn phũ phàng của đời thực.
Câu chuyện kể lại chuyến đi thực tế của người nghệ sĩ nhiếp ảnh, nếu như những phát hiện mới mẻ của anh về vẻ đẹp nghệ thuật của thiên nhiên khiến người ta rung động, thì sự phát hiện về sự thật trần trụi và đắng cay của con người đằng sau vẻ đẹp ấy lại bóp nghẹt bao trái tim người đọc.
Tác giả đã viết lại câu chuyện của Phùng khi đi thực tế để săn tìm một bức ảnh đẹp nhất về chủ đề biển trong sương sớm theo yêu cầu của trưởng phòng. Anh đã quay trở lại vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh tham gia kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
Nhân dịp này, anh thăm lại người bạn Đẩu nay đang làm chánh án tòa huyện. Sau nhiều buổi phục kích, cuối cùng Phùng cũng bắt gặp được một cảnh đẹp thiên nhiên trời cho khiến tâm hồn anh xao xuyến đến lạ lùng. Một chiếc thuyền ngoài xa mờ mờ ảo ảo trong sương sớm.
Nhưng khi chiếc thuyền lại gần, bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ấy không còn nữa, hiện ra trước mắt anh là sự thật nghiệt ngã về cuộc đời éo le, đầy tủi nhục của người đàn bà hàng chài. Sau những lần chứng kiến cảnh người chồng bạo lực vũ phu đánh vợ, Phùng đã xông vào can ngăn. Người đàn bà được đưa tới tòa án huyện.
Trước những lời khuyên nhủ, giảng giải của Phùng và Đẩu về cuộc ly hôn, người đàn bà không những không đồng ý mà còn van xin họ đừng làm vậy. Câu chuyện của bà khiến cả hai người chiến sĩ cách mạng suy ngẫm lại về cuộc đời và nghệ thuật.
Nghệ thuật ở đây là một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và sống động về chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm. Phùng gọi đó là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầy sương mù như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ rung động và xuyến xao. Một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến Phùng bối rối như tâm trạng khi đứng trước một người con gái đẹp.
Phùng tự hỏi lòng mình Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Cảnh đẹp ấy đang xuyên thấu tâm hồn người nghệ sĩ, bóp thắt trái tim anh, làm nên cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Có lẽ Phùng đang dành hết tất cả xúc cảm của mình để hòa vào thiên nhiên. Anh muốn được thưởng thức nó một cách trọn vẹn.
Cảnh đẹp ấy không phải ai cũng có thể cảm nhận được. Phải là người tinh tế, nhạy cảm mới trải nghiệm được hết món quà thiêng liêng mà thiên nhiên ban tặng. Phùng chụp vội những tấm ảnh để mang về chọn lọc cho trưởng phòng.
Thế nhưng, đằng sau bức tranh ấy lại là sự thật cay đắng về cuộc đời bất hạnh của người đàn bà làng chài. Chưa kịp tận hưởng hết những nét đẹp huyền diệu của thiên nhiên thì sự phũ phàng của cuộc đời đã phơi bày ngay trước mắt người nghệ sĩ.
Tiếng quát mắng thô lỗ, cục cằn của người đàn ông trên thuyền làm Phùng bừng tỉnh. Hắn trút hết cơn giận bằng cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào vợ mình. Nhưng điều đáng chú ý ở đây là người đàn bà dù bị đánh đau đến vậy vẫn không hề chống cự, cũng không có dấu hiệu trốn chạy. Điều đó càng làm Phùng thấy tò mò và khó hiểu.
Anh ngỡ ngàng và chua xót trước sự thật éo le, trớ trêu ngay trên chiếc thuyền vừa đi vào bức ảnh nghệ thuật của anh. Người xem có thể cũng sẽ cảm nhận được một bức tranh toàn bích giống như anh vừa thấy, nhưng chỉ một mình anh chứng kiến được sự thật phũ phàng đằng sau vẻ đẹp toàn thiện của bức tranh.
Phải chăng cuộc đời luôn ẩn chứa nhiều trái ngang mà người ta khó lòng phát hiện được ra nếu không tìm hiểu kỹ càng, chi tiết? Sau nhiều lần chứng kiến cảnh bạo lực của người đàn ông vũ phu, Phùng đã quyết định xông vào can ngăn và đánh nhau với hắn, Phùng bị thương được đưa về tòa án huyện để băng bó.
Tại đây, câu chuyện của người đàn bà làng chài khiến cả Phùng và Đẩu một lần nữa rung động và xót xa. Dù bị chồng đánh, nhưng bà không hề có ý định bỏ chạy hay ly hôn. Thậm chí khi Đẩu đề nghị bà ly hôn với lý do Bà không thể ở cùng người chồng vũ phu như vậy đâu, bà đã một mực chối từ và van xin các anh đừng làm vậy.
Cuộc sống là vậy, có nhiều uẩn khúc bên trong những gì ta nhìn thấy. Đằng sau bức tranh thiên nhiên toàn bích đầy nghệ thuật của chiếc thuyền ngoài xa lại là cảnh bạo lực gia đình tàn bạo trong nước mắt khổ đau. Nhưng đằng sau giọt nước mắt ấy lại là sự nhẫn nhục, là đức hi sinh của người vợ dành cho con cái.
Bà chấp nhận những trận đòn roi vì tình yêu thương vô bờ cho đàn con. Cuộc sống trên thuyền không có người đàn ông sẽ chẳng thể nào vượt qua được những lúc bão bùng mưa gió. Có thể Phùng và Đẩu sẽ thở dài sau câu chuyện của người đàn bà nhẫn nhục, nhưng trong thâm tâm họ lại dành sự xót thương, đồng cảm với những số phận cơ cực giống như bà.
Lúc này, nghệ thuật và cuộc đời không đơn thuần chỉ là một bức tranh toàn bích, mà còn là sự cảm thông, thấu hiểu của những con người đang thưởng thức nghệ thuật. Qua những tình huống trên, tác phẩm đã mang lại bài học về cách nhìn nhận cuộc đời qua cái nhìn toàn diện. Mặt khác, đó cũng là những khó khăn của nhân dân trong thời kỳ đầu đổi mới đất nước.
Chiến tranh kết thúc, bao nhiêu máu xương của người anh hùng đã đổ xuống, nhưng đằng sự ăn mừng chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc, đời sống nhân dân vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Những hủ tục, những tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, nghèo đói… vẫn đeo bám họ từng ngày.
Bằng lối viết chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện niềm xót thương và lòng đồng cảm với số phận những người nông dân bất hạnh. Nhất là người phụ nữ, họ luôn sống cam chịu, nhẫn nhục và giàu đức hi sinh.
Nếu như chiếc thuyền ngoài xa không tiến lại gần, có lẽ, Phùng sẽ không phát hiện ra sự thật đằng sau cảnh đẹp tuyệt trần mình vừa chụp được.Sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, bóng dáng người đàn bà lam lũ vất vả lại thấp thoáng hiện ra giữa cảnh đẹp thiên nhiên mờ mờ ảo ảo.
Tất cả đã làm nên một tuyệt tác thống nhất giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đồng thời, cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện tài tình của Nguyễn Minh Châu qua việc sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề – tư tưởng của tác phẩm.
Hy vọng với những thông tin chúng tôi chia sẻ liên quan đến phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa sẽ giúp các bạn phần nào hiểu hơn về câu truyện và có thể làm được bài tập liên quan đến cậu truyên được hiệu quả hơn